TIN TỨC
Sản Phẩm Đồ Cói Decor Đồ Bèo Trang Trí Ninh Bình
Sự Hình Thành Miền Đất Cói Kim Sơn Ninh Bình
Từ trước năm 1829, đời vua Minh Mạng Triều Nguyễn, với cương vị là Doanh điền sứ, Nguyễn Công Trứ tài ba đã chiêu mộ dân đi khai hoang vùng ven biển phía Đông Nam của tỉnh Ninh Bình. Đến tháng 3 âm lịch năm 1829, vua Minh Mạng quyết định thành lập ở đây một huyện mới, lấy tên là Kim Sơn. Từ đó huyện Kim Sơn chính thức có tên trên bản đồ tỉnh Ninh Bình.
Ngay từ thời ấy, người dân Kim Sơn đã trồng cây lúa và cây cói. Họ còn lưu truyền một huyền thoại lý thú: Thời xa xưa, đã lâu lắm rồi, có một bầy tiên nữ bay qua cùng biển nơi đây. Thấy biển rộng mênh mông sóng sánh phù sa màu mỡ, nàng tiên út của trời mến cảnh đẹp ấy, đã cắt mái tóc dài mượt, óng ả của mình ném xuống để đánh dấu vùng biển. Gió thổi, sóng vỗ ngày đêm đã đẩy những sợi tóc của nàng trôi dạt vào bờ, gặp đất sa bồi, mọc lên thành rừng cây nhỏ, cao, thân xanh mỡ, tròn thon từ gốc, nửa trên đến ngọn vuốt thành 3 cạnh, búp hoa chụm chúm xanh, gọi là cây cói. Chu kỳ sinh trưởng của cây cói cũng gần như cây lúa. Cói vụ chiêm cũng thu hoạch vào tháng 5, còn cói vụ mùa thu hoạch vào tháng 10 âm lịch. Khi hoa cói héo thì người dân thu hoạch cói. Con người lấy cây cói về phơi chỉ để lợp nhà, rồi đến một lúc nào đó, phát hiện ra nó, khi thân ngả vàng, cắt sát gốc, bỏ chùm hoa trên ngọn, chẻ đôi, phơi kỹ, đem dệt với sợi vỏ cây đay làm thành chiếu để nằm. Từ đó nghề trồng cói và dệt chiếu đã có trên đất Kim Sơn.
Cây cói mới có ở miền đất trẻ này gần hai thế kỷ. Nhưng nó đã có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của huyện. Diện tích trồng cói ở Kim Sơn hiện nay có khoảng 600 ha. Bình quân sản lượng cói hàng năm đạt từ 7.000 đến 8.000 tấn cói chẻ. Không chỉ người dân Kim Sơn trồng cói, mà sau khi huyện Kim Sơn đắp đê lấn biển, bộ đội quai đê lấn biển cũng trồng cói. Cây cói đã là cây mũi nhọn, không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao, mà còn có tác dụng tham gia cải tạo bãi bồi ngập mặn.
Cây Cói Trở Nên Phổ Biến ở Kim Sơn Ninh Bình
Người dân Kim Sơn đã dùng cây cói làm thành nhiều sản phẩm như: Chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, túi xách, mũ … Những sản phẩm này đã vươn tới gần 20 nước trên thế giới. Nhưng chủ yếu họ dệt các loại chiếu như: Chiếu trơn (chiếu không cải hoa); chiếu đàn (chiếu trơn vào loại xấu), chiếu đậu (chiếu màu trắng ngà, làm bằng thứ cói tốt); chiếu hoa còn gọi là chiếu bông (chiếu có cải hoa hoặc in hoa), chiếu gon (chiếu dệt bằng thứ cói thân cao và dài), chiếu liền (chiếu hẹp khổ và dài), chiếu cạp (chiếu mép có viền vải), chiếu lõi …
Đồ Cói Thành Mặt Hàng Đặc Sản của Kim Sơn Ninh Bình
Chiếu cải hoa có bố cục đối xứng chặt chẽ đến nghiêm ngặt: cạp điều rộng, đường chỉ thẳng, 4 góc và xung quanh là những hoa văn đẹp, chữ “Thọ” bằng Hán tự tròn truyện vuông ở giữa, hai đường thẳng và cong biến cải hoa mỹ uyển chuyển ở hàng riễu 4 bên và tụ lại. Trên và dưới chữ “Thọ” còn có các hàng chữ cải: “Chúc mừng”, “Hạnh phúc” hoặc “Cung chúc”, “Tân Xuân” hài hoà, đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật, không tả hết thành lời. Chiếu chỉ có 2 màu: đỏ tươi và trắng hồng. Màu trắng hồng là màu nền của chiếu, nõn nà như lụa. Màu đỏ tươi rực rỡ là màu cải hoa, cải chữ, thể hiện ước mơ của con người.
Khó khăn nhất vẫn là dệt chiếu đậu, đòi hỏi cầu kỳ và tinh xảo hơn. Phải chọn cói kỹ, sao cho đều, trắng ngà, dài thon, tròn tắp, mỗi sợi chỉ nhỉnh hơn cái nan hoa xe đạp. Sợi đay phải săn, nhỏ, mịn. Khi dệt phải làm cho chiếu có múi nổi nho nhỏ, gọi là múi na, trông như một kiểu hoa văn tự nhiên. Lá chiếu đậu đẹp một cách sinh động, chắc, thơm, bền đến 5-7 năm chưa rách. Chiếu đậu không chỉ bền, mà còn là nét đẹp trắng trong, càng nhìn càng thấy đẹp. Đó là một nép đẹp tinh khiết, trinh nguyên của cây cói, không màu sắc, không đua tranh, như tâm hồn thầm kín của người con gái kín đáo, dịu dàng.
Để làm ra một là chiếu cải hoa và chiếu đậu là cả một quá trình lao động sáng tạo, vất vả, thận trọng của người dân từ khâu trồng cói, chọn cói sao cho dài và đều, phơi cói sao cho trắng nõn, nhuộm cói sao cho đỏ tươi và bền màu, sợi đay dệt phải nhỏ và bền, đến khâu dệt cải hoa mang tính nghệ thuật cao. Người ngồi dệt chiếu, hai bàn tay cầm go đập vào, lại đẩy ra thoăn thoắt, đập go đến đâu bẻ biên đến đó, hết tay phải lại tay trái, ngón tay bắt biên như múa. Go làm bằng tre, có nhiều thanh như phím đàn piano, mỗi thanh một lỗ giữ một sợi đay. Đập go mạnh, lá chiếu sẽ dày. Ngón tay cắt dát phải khéo léo, mềm mại như một nghệ sỹ bắt đàn phím. Mắt phải tinh, chính xác, thuộc từng nét cải để không đan lỗi. Nét chữ, đường hoạ tiết, hoa văn, đường chỉ cải to hay nhỏ, vuông hay tròn đều phải theo mẫu, tính chi li đến từng sợi cói, sợi đay dệt. Tuỳ từng kiểu hoa văn mà cắt dát từng sợi, để khi đệt khi thay đổi màu cói (xanh, đỏ, vàng, tím, trắng) lá chiếu sẽ nổi các loại hoa (hoa vuông, hoa cải chữ, hoa cánh, hoa núi,…).
Còn người văng cói phải để bên hai bó cói trở ngọn, gốc nhặt từng sợi cói, quấn vào đầu văng, lao nhanh vào giữa hai dàn sợi day. Nguyên tắc văng cói là: cứ 1 gốc lại 2 ngọn, 2 gốc lại 1 ngọn (nếu dệt chiếu đàn chỉ 1 gốc, 1 ngọn). Văng cói phải nhịp nhàng theo người dệt. Sự thuần thục của 2 người văng và dệt chiếu giống như bác sỹ và người mổ phụ trong ca phẫu thuật, tới mức không cần nhìn nhau vẫn hoà nhập, hoàn hảo.
Nhìn lá chiếu cải hoa nền nã và rực rỡ với nét chữ, hoa văn trang trí, mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, do bàn tay vàng, khéo léo, tỷ mỉ, tinh xảo của người dân Kim Sơn tạo ra, ai cũng muốn có một đôi chiếu “để nằm” trên “hạnh phúc”, chữ “thọ” để sống lâu khoẻ mạnh, ước mơ nảy nở vuông tròn trong cuộc đời, tất cả như đã dệt vào lá chiếu.
Sản Phẩm Đồ Cói Ninh Bình
Ngày nay, người dân Kim Sơn coi nghề dệt chiếu cải hoa và chiếu đậu là nghề truyền thống. Các xã Lưu Phương, Chính Tâm, Kim Trung, Thượng Kiệm, Văn Hải… của huyện, mỗi năm, mỗi xã sản xuất được từ 50.000 đến 70.000 lá chiếu. Trong toàn huyện, gần như nhà nào cũng có khung dệt chiếu. Sau những ngày thu hoạch lúa, người dân Kim Sơn già, trẻ, gái, trai, tuỳ theo từng công việc, ai nấy đều làm cói, người thì cắt cói, chẻ cói, phơi cói, nhuộm màu cho cói, người thì ngồi dệt cói, đan các mặt hàng thủ công mỹ nghệ bằng cói. Sợi cói dài dùng để dệt chiếu, sợi cói ngắn nhuộm nhiều màu sặc sỡ để đan làn, khâu thảm hoặc làm các mặt hàng mỹ nghệ. Điều đáng phấn khởi là ở Kim Sơn có nghề làm cói nên không có lao động dư thừa và cũng vì vậy, ít có những vụ việc tiêu cực. Hàng năm nhiều gia đình thu nhập thêm bằng nghề cói có từ 10 đến 20 triệu đồng.
Những cây cói dài, đẹp dùng để dệt chiếu, còn những cây cói ngắn, người dân Kim Sơn nhuộm các màu: xanh, đỏ, tím, vàng làm nhiều sản phẩm cói khác như: thảm, làn, khay, hộp, đĩa cốc, tách, túi xách, mũ … Để làm được những sản phẩm cói này, phải có những người sáng tạo ra mẫu. Còn người đan phải kéo kéo. Họ đều là hoạ sỹ, nghệ nhân tài năng. Đôi bàn tay vàng, tài hoa của họ như thổi hồn vào sản phẩm cói. Hầu như các cây cói dài hay ngắn, người dân đều tận dụng để làm cho các sản phẩm trên. Đặc biệt các loại làn cói được người dân sử dụng nhiều để đựng các thực phẩm khi đi chợ hoặc các đồ vật khác. Người nước ngoài rất thích các túi xách, mũ, hộp làm bằng cói. Các sản phẩm cói này vừa đẹp, nhẹ, lại thân thiện với môi trường. Nét đặc thù của người dân Kim Sơn là ở các làng nghề đều mang tính chuyên nghiệp. Nhiều xã trong huyện chuyên dệt chiếu như: Văn Hải, Trì Chính, Lưu Phương, Chính Tâm, Thượng Kiệm, thị trấn Phát Diệm. Nhưng một số làng khác lại chuyên đan làn và các mẫu nhỏ để xuất khẩu. Làng Thủ Trung chuyên đan các sản phẩm mỹ nghệ như: hộp kiểu, hộp chùa Một Cột, giày, dép mẫu nhỏ. Các sản phẩm mỹ nghệ bằng cói này đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Cây cói Kim Sơn mềm mại, óng ả như sợi nối giữa biển và bờ, giữa quá khứ và hiện tại, giữa Việt Nam và thế giới để vươn tới tương lai. Cao hơn nữa, nó là sợi nối giữa Văn hoá – Kinh tế – Du lịch. Rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm Nhà thờ đá Phát Diệm – Một công trình kiến trúc độc đáo của dân tộc, khi trở về đều mua một số sản phẩm cói Kim Sơn về dùng hoặc đem trưng bày trong phòng khách, tự hào là mình đã đến Kim Sơn. Những cây cói cây lúa ở đây đã lên ngôi trên vùng đất mới, đất mở màu mỡ, có người dân cần cù lao động sáng tạo. Vùng đất Kim Sơn đã phát triển đúng trên cái nghĩa của nó là Núi Vàng. Đó là sự đánh giá, khẳng định và cũng là ước mơ của người xưa, của nhà thơ kiêm nhà kinh tế nông nghiệp Nguyễn Công Trứ về một vùng đất bồi ven biển của tỉnh Ninh Bình – nơi xứ sở của tiếng chuông nhà thờ ngân vang – một vùng công giáo có tới hơn 140 nhà thờ lớn nhỏ, có nhà thờ đá Phát Diệm nổi tiếng đã và trồng cói, cây lúa để xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
Nghề Đan Bèo Tây Xuất Ngoại ở Ninh Bình
Khi nghề dệt làm các sản phẩm cói decor ở huyện Kim Sơn dần tìm lại thị trường, thợ thủ công đã tìm cho mình thêm một hướng đi mới là các sản phẩm bèo trang trí. Việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ với nguyên liệu bèo tây vừa cho thu nhập cao, vừa giữ được nghề đan lát truyền thống nên được người dân phát triển.
Bèo tây (tên gọi khác là lục bình hay lộc bình) là thực vật thủy sinh, thân mộc, sống trôi nổi trên mặt sông. Mỗi cây bèo tây trưởng thành thường dài 60-90 cm. Sau khi thu hoạch, người thợ sẽ cắt bỏ phần gốc và phần lá rồi phơi nắng cho thật khô để làm nguyên liệu đan các mặt hàng xuất khẩu. Dù bèo tây sinh trưởng quanh năm nhưng công đoạn phơi chỉ thực hiện được trong mùa nắng nên nhiều người phải bỏ cả tháng trời đi cắt bèo về phơi, dự trữ đan dần trong năm.
Nghề đan các sản phẩm bèo tây xuất hiện ở Ninh Bình từ năm 2005, nhưng phát triển mạnh mẽ vài năm gần đây. Một phần do được thị trường nước ngoài mở rộng, một phần do thu nhập cao nên thợ thủ công tham gia đan lát ngày càng nhiều. Trước kia các gia đình thường làm nghề dệt chiếu. Những năm gần đây thợ dệt chiếu ít đi do thu nhập thấp, sản phẩm làm ra bán chậm, người ta chuyển sang làm các sản phẩm decor trang trí từ cói, bèo tây.
Bèo tây mọc nhiều trên các kênh nước nên chỉ bỏ thời gian đi vớt về phơi khô rồi đan chứ không mất tiền mua nguyên liệu nên thu nhập khá. Với những thợ thạo việc, mỗi ngày ngồi đan kiếm được 150.000-300.000 tiền công. Các sản phẩm chế biến từ nguyên liệu tự nhiên như bèo tây, cói được thị trường Nhật Bản, Mỹ, Đức, Đan Mạch… ưa chuộng do bền, đẹp và đặc biệt là thân thiện với môi trường. Sản phẩm do người thợ Kim Sơn làm rất đa dạng, như: thảm, giỏ đựng đồ, kệ đựng báo, khay giấy, bình hoa, ghế salon…
Kỹ thuật đan lục bình đơn giản hơn dệt chiếu, gồm các kiểu cơ bản như: đan hạt gạo, đan xương cá và đan mạng nhện. Tùy sản phẩm mà sử dụng kiểu đan khác nhau. Ví dụ kiểu xương cá thường được sử dụng đan thảm, còn đan kệ để báo, tạp chí thì sử dụng kiểu hạt gạo. Mỗi ngày cơ sở đầu mối thu mua hàng nghìn sản phẩm làm từ bèo tây và cả cói ở các xã trong huyện. Ở Kim Sơn 100% các làng, xã trong huyện tham gia làm sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ cói và bèo tây với doanh thu mỗi năm trên 200 tỷ đồng. Nghề đan thủ công mỹ nghệ giải quyết việc làm cho gần 25.000 lao động với thu nhập ổn định 2-5 triệu đồng mỗi tháng.
Cửa Hàng Đồ Cói Trang Trí tại Ninh Bình
Sakura Dekor là cửa hàng kinh doanh sản phẩm đồ bèo decor, sản phẩm đồ cói trang trí ninh bình, hoa lụa cao cấp, gốm và đồ trang trí theo phong cách hiện đại tại Ninh Bình, tọa lạc tại 95 Lê Đại Hành, Thanh Bình, Thành phố Ninh Bình. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hoa tươi, Sakura tiếp tục ra mắt cơ sở mới về lĩnh vực hoa lụa cao cấp, gốm và đồ trang trí. Thấu hiểu điều đó, Sakura luôn ưu tiên lựa chọn những sản phẩm tốt nhất, có tính thẩm mỹ cao phù hợp với nhu cầu trang trí hiện tại cũng như góp phần đưa sản phẩm của người Việt sâu và rộng hơn cho chính những người dân Việt. Bên cạnh đó, Sakura cũng phát triển thêm dòng sản phẩm đồ trang trí, bao gồm cả các sản phẩm trang trí cho nhà ở, cửa hàng, hay những dịch vụ trang trí khác như backdrop, show window phục vụ cho những cửa hàng đang kinh doanh, hoa lụa đại sảnh, hoa lụa nội thất… Với sứ mệnh mang đến cho khách hàng những sản phẩm cao cấp, nghệ thuật, bền đẹp với thời gian, độc đáo và thiết kế dành riêng cho mình. Sakura không ngừng học hỏi, sáng tạo để mang đến những sản phẩm giá trị, độc đáo.
Xem thêm các sản phẩm khác của chúng tôi tại đây